Những người đồng tính (homosexuals) bị lôi cuốn về mặt tình dục (hoặc hấp dẫn giới tính) đối với những người cùng giới tính (1), trong khi đó những người lưỡng tính (bisexuals) bị lôi cuốn về mặt tình dục đối với những người cùng và khác giới tính với họ. Những người đồng tính nam thường được gọi là gay và đồng tính nữ được gọi là lesbian, bởi người ta muốn đề cập đến một phương diện rộng hơn về quan điểm và lối sống thay vì dùng thuật ngữ homosexual - chỉ chú trọng vào những hành vi tình dục.
Số người chọn bạn tình đồng giới cho mình ở một thời điểm nào đó rất đáng kể. Ước tính từ 20 – 25% nam giới và 15% nữ giới đã từng có kinh nghiệm tình dục đồng tính ít nhất một lần trong giai đoạn trưởng thành. Tìm ra chính xác số người chuyên sinh hoạt tình dục đồng tính (exclusively homosexual) là một điều khó khăn, ước tính có từ 1.1% - 10% những người như thế. Phần lớn các chuyên gia cho rằng có từ 5 – 10% đàn ông lẫn phụ nữ chỉ sinh hoạt tình dục đồng giới trong những khoảng thời gian thật dài trong đời.
Mặc dù người ta thường cho rằng đồng tính và dị tính (heterosexuality) là hai khuynh hướng tình dục khác biệt nhau hoàn toàn, nhưng vấn đề không đơn giản như thế. Nhà nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực tình dục – Alfred Kinsey – công nhận điều này khi ông xem xét khuynh hướng tình dục trên một thang đánh giá (2): khuynh hướng tình dục đồng tính ở một đối cực và tình dục dị tính ở đối cực còn lại. Ở giữa là những người có hành vi sinh hoạt tình dục cả đồng tính và dị tính. Khảo cứu của Kinsey cũng cho thấy rằng khuynh hướng tình dục phụ thuộc vào cảm nhận, tập quán sinh hoạt tình dục và tình cảm lãng mạn của mỗi người.
Điều gì quyết định khuynh hướng tình dục của một người? Mặc dù có nhiều học thuyết được đề xuất nhưng không có học thuyết nào đưa ra một câu trả lời hoàn toàn thỏa đáng. Một vài cách giải thích về khuynh hướng tình dục dựa vào cơ chế sinh học trong tự nhiên và có nguồn gốc di truyền. Bằng chứng về nguồn gốc di truyền của khuynh hướng tình dục đến từ việc nghiên cứu các cặp song sinh.
Hóc-môn cũng đóng vai trò trong việc quyết định khuynh hướng tình dục. Chẳng hạn, nghiên cứu cho thấy đứa con gái bị nhiễm chất DES (diethylstilbestrol) từ trong bụng mẹ (mẹ của họ dùng thuốc để tránh sẩy thai) có nhiều khả năng mang khuynh hướng tình dục đồng tính hoặc lưỡng tính.(3)
Một vài bằng chứng khác cho thấy những sai khác trong cấu trúc não bộ cũng có liên quan đến khuynh hướng tình dục. Ví dụ, cấu trúc phần trước của vùng dưới đồi (anterior hypothalamus), vùng não chi phối các hành vi tình dục, ở những người đồng tính và dị tính có sự khác biệt. Trong thời kì phát triển, đặc biệt là giai đoạn thai nhi, quá trình hình thành não dưới xảy ra những sai lệch dẫn đến sự thay đổi đi ngược lại với định hướng giới tính được qui định bởi nhiễm sắc thể tính dục thuộc cặp thứ 23 của con người. Tương tự, một nghiên cứu khác khi so sánh cấu trúc não bộ của người dị tính ở nam giới hoặc nữ giới cho thấy, não bộ của những người đàn ông đồng tính có những bó dây thần kinh nối trước lớn hơn (4).
Tuy nhiên, những nghiên cứu trên lại cho thấy rằng các nguyên nhân sinh học cơ bản có thể gây ra khuynh hướng tình dục đồng tính chưa đủ sức thuyết phục, vì hầu hết những nghiên cứu được thực hiện trên một số ít đối tượng riêng biệt. Hơn nữa, một nhân tố di truyền hoặc sinh học chỉ có thể khiến một người có khuynh hướng tình dục đồng tính trong những điều kiện môi trường nhất định nào đó.
Rất ít bằng chứng cho thấy rằng khuynh hướng tình dục chịu sự ảnh hưởng của nền giáo dục thời thơ ấu (child-rearing practice) hoặc những động lực từ gia đình. Mặc dù những lí thuyết về phân tâm học cổ điển nói rằng bản chất của mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái có thể dẫn đến khuynh hướng tình dục đồng tính ở đứa con .
Freud cho rằng khuynh hướng tình dục đồng tính là hậu quả của sự đồng hóa sai lệch với bố mẹ dị tính trong quá trình hình thành bản ngã của đứa trẻ. Tương tự, một số nhà phân tâm học khác cho rằng những người đồng tính nam thường có những bà mẹ đầy uy quyền và có xu hướng bảo vệ con cái quá mức, trong khi những người cha lại thụ động và vô tích sự trong gia đình. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu không ủng hộ những lời giải thích căn cứ vào tập quán dưỡng dục con cái hay vào bản chất cơ cấu gia đình.
Một cách giải thích khác về khuynh hướng tình dục căn cứ vào lí thuyết học hỏi (learning theory). Theo quan điểm này, khuynh hướng tình dục được học hỏi qua sự tưởng thưởng (rewards) và trừng phạt (punishments), giống như theo cách chúng ta thích học bơi hơn là học quần vợt vậy. Chẳng hạn, một đứa trẻ vị thành niên có một kinh nghiệm khó chịu trong việc quan hệ tình dục với người khác giới có thể sẽ không có hứng thú khi kết giao với người khác giới về sau. Nếu cậu ta có được một phần thưởng - tức là sự hài lòng, thỏa mãn khi quan hệ với người cùng giới, thì khuynh hướng tình dục đồng tính có thể sẽ ám ảnh trong trí tưởng tượng về tình dục của cậu ta. Nếu những suy nghĩ, tưởng tượng đó còn ám ảnh cậu ta trong những hoạt động tình dục sau này – như thủ dâm chẳng hạn – chúng có thể được củng cố thêm thông qua cơn cực khoái. Sự kết hợp giữa những hành vi tình dục đồng tính và sự thỏa mãn, khoái lạc trong tình dục có thể khiến cho tình dục đồng tính trở thành tập quán tình dục ưa thích của cậu ta.
Mặc dù lời giải thích căn cứ vào lí thuyết học hỏi có vẻ đúng và hợp lí, song cũng gặp nhiều khó khăn, trở ngại khiến chúng tuyệt nhiên không phải là những lời giải thích hoàn toàn thỏa đáng. Vì xã hội của chúng ta có khuynh hướng kì thị, khinh miệt hành vi tình dục đồng tính nên người ta mong mỏi hành vi này sẽ gắn liền với sự trừng phạt hơn là khen thưởng. Hơn nữa, trẻ em lớn lên trong gia đình có bố/mẹ là những người đồng tính, theo thống kê, thường không có khả năng trở thành người đồng tính, điều này trái với lí thuyết cho rằng hành vi tình dục đồng tính có thể học hỏi ở người khác.
Nghiên cứu cho thấy những người đồng tính và lưỡng tính hoàn toàn khỏe mạnh về thể chất lẫn tinh thần như những người dị tính.
Vì những khó khăn trong việc tìm kiếm một lời giải đáp thỏa đáng, chúng ta không thể nào trả lời câu hỏi rằng điều gì đã quyết định khuynh hướng tình dục. Một nhân tố nào đó không thể đơn phương khiến cho một người mang khuynh hướng tình dục đồng tính hoặc dị tính. Thay vào đó, sẽ thỏa đáng hơn khi công nhận rằng sự kết hợp giữa những nhân tố sinh học và môi trường sống đã góp phần tạo nên điều đó.
Dù không biết chính xác vì sao lại hình thành những khuynh hướng tình dục đặc biệt như vậy, nhưng có một điều ta chắc chắn rằng: việc điều chỉnh tâm lí không thể làm thay đổi khuynh hướng tình dục của một người. Những người đồng tính hoàn toàn có thể khỏe mạnh về thể chất lẫn tinh thần như những người dị tính, mặc dù sự phân biệt đối xử mà họ phải trải qua có thể gây nên vài triệu chứng rối loạn, như thất vọng, chán nản, phiền muộn. Người đồng tính và lưỡng tính cũng có những quan điểm tương đồng về bản ngã dù khuynh hướng tình dục của họ là như thế nào đi nữa. Vì những lí do đó, Hiệp Hội Tâm Lí Học ở Mĩ (American Psychological Association) và hầu hết những tổ chức chăm sóc sức khỏe tâm thần đều nỗ lực giảm thiểu sự phân biệt đối xử với những người đồng tính, chẳng hạn như việc thu hồi lệnh cấm người đồng tính tham gia quân đội.
--------------------
Chú thích:
(1) Tuy nhiên, theo Lawrence J.Hatterer, tác giả của quyển “Để thay đổi xu hướng tình dục ở nam giới”, đồng tính luyến ái nói đến một người trưởng thành bị hấp dẫn về mặt giới tính đối với người cùng giới nhưng không nhất thiết có quan hệ tình dục với người đó.
(2) Kinsey là người đã đưa ra một khái niệm quan trọng - khung xu hướng tình dục tiếp diễn. Nó cho thấy rằng xu hướng tình dục đồng giới được hiểu theo một ý nghĩa mới đầy đủ hơn. Trọng tâm của khái niệm khung tình dục tiếp diễn về hiện tượng đồng tính là ở chỗ nó cung cấp một hệ thống đánh giá, theo đó mỗi cá nhân sẽ áp dụng vào điều kiện thực tế của mình.
Theo mô hình khái niệm khung xu hướng tình dục tiếp diễn của Kinsey, một thang điểm được vạch từ 0 (hoàn toàn tình dục dị tính) đến 6 (hoàn toàn tình dục đồng tính), con số ở giữa là trạng thái lưỡng tính. Những con số ngả sang gần hai thái cực sẽ có những chỉ số thích hợp với xu hướng tình dục của mỗi cá nhân.
(3) Nhiều người cố gắng đi tìm cách chữa trị “chứng” đồng tính nam bằng cách tiêm thêm kích thích tố nam (testosternone) vào cơ thể. Trái với mong đợi, khi tiêm thêm kích thích tố này thì người đồng tính càng hăm hở hơn với hành vi tình dục đồng giới . Điều này cho chúng ta thấy rằng lượng testosternone chỉ góp phần thúc đẩy sự ham muốn tình dục chứ không có ảnh hưởng đến xu hướng tình dục.
(4) Cấu trúc não bộ của người đồng tính nam tương tự của người phụ nữ dị tính . Ở phụ nữ dị tính, bó dây thần kinh nối hai bán cầu não gồm có dây nối trước (anterior commissure) và dây nối sau (massaintermedia).